Vết thương tim là gì? Các công bố khoa học về Vết thương tim

Vết thương tim, còn được gọi là cúm tim, là một tình trạng khi mạch máu vàng dẫn đến tim bị ảnh hưởng, gây suy tim hoặc thất bại tim. Đây là một bệnh tim mạch n...

Vết thương tim, còn được gọi là cúm tim, là một tình trạng khi mạch máu vàng dẫn đến tim bị ảnh hưởng, gây suy tim hoặc thất bại tim. Đây là một bệnh tim mạch nghiêm trọng và có thể đe dọa tính mạng. Vết thương tim thường xảy ra do các vấn đề về mạch máu vàng, khi mà các mạch máu dẫn đến tim bị hẹp hoặc bị tắc, làm giảm lượng máu và oxy cung cấp cho tim. Tình trạng này thường xảy ra do bệnh động mạch vành, còn được gọi là bệnh nhồi máu cơ tim, có thể gây ra đau tim hoặc trái tim không hoạt động đúng cách.
Vết thương tim, hay còn được gọi là cúm tim, là một tình trạng bệnh lý của tim mạch, khi lượng máu và oxy được cung cấp cho tim bị giảm đáng kể. Điều này thường xảy ra do một biến chứng của bệnh động mạch vành, được gọi là nhồi máu cơ tim hoặc nguyên nhân khác như co cứng động mạch, đột quỵ hoặc mắc bệnh đau tim không ổn định.

Bệnh động mạch vành là một tình trạng khi các động mạch dẫn máu đến tim bị hẹp do sự tích tụ các chất béo, xơ vữa và các mảng bám khác trên thành của mạch máu. Khi các mảng bám này tăng lên đủ lớn, chúng có thể gây tắc nghẽn hoặc các cục máu đông tạo thành, khiến lượng máu cung cấp cho tim bị giảm.

Khi tim không nhận đủ máu và oxy, các tế bào cơ tim sẽ không hoạt động đúng cách. Việc tắc nghẽn hoàn toàn của một động mạch vành có thể gây ra cơn đau tim, còn được gọi là cơn đau thắt ngực. Đau thắt ngực do nhồi máu cơ tim thường xuất hiện như một sự cảm thấy nặng nề, áp lực hoặc trên ngực, kèm theo khó thở, buồn nôn, mệt mỏi và đau nhức lan ra cánh tay, hàm hoặc sau cổ.

Nếu tắc nghẽn nhanh chóng được giải quyết, vùng tim bị cung cấp máu không đủ có thể bị tổn thương. Điều này có thể dẫn đến vết thương tim, hay còn gọi là cúm tim. Trong trường hợp nặng, khi một phần tim bị hư hỏng do thiếu máu kéo dài, có thể xảy ra suy tim hoặc thất bại tim.

Các yếu tố nguy cơ cho vết thương tim bao gồm tuổi tác (đặc biệt là sau tuổi 50), hút thuốc lá, tiền sử bệnh tim mạch gia đình, huyết áp cao, tiểu đường, cholesterol cao, béo phì, thiếu vận động, căng thẳng, tình trạng tâm lý căng thẳng và tiếp xúc với môi trường ô nhiễm. Điều quan trọng là tiến hành kiểm tra định kỳ tim mạch và tuân thủ các biện pháp phòng ngừa như ăn uống lành mạnh, vận động thường xuyên và kiểm soát các yếu tố nguy cơ có liên quan để giảm nguy cơ vết thương tim.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vết thương tim":

Những tiến bộ gần đây trong việc sử dụng nanocellulose cho ứng dụng y sinh học Dịch bởi AI
Wiley - Tập 132 Số 14 - 2015
TÓM TẮT

Vật liệu nanocellulose đã trải qua sự phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây như là vật liệu y sinh học đầy triển vọng nhờ vào các tính chất tuyệt vời về mặt vật lý và sinh học của chúng, đặc biệt là khả năng tương thích sinh học, khả năng phân hủy sinh học và độc tính tế bào thấp. Gần đây, một lượng lớn nghiên cứu đã được hướng vào việc chế tạo các sợi nanocellulose tiên tiến với các hình thái và tính chất chức năng khác nhau. Những sợi nanocellulose này được ứng dụng rộng rãi trong các thiết bị cấy ghép y khoa, kỹ thuật mô, phân phối thuốc, chữa lành vết thương, ứng dụng trong hệ tim mạch và các ứng dụng y khoa khác. Trong bài đánh giá này, chúng tôi điểm lại các tiến bộ gần đây trong thiết kế và chế tạo các vật liệu sinh học tiên tiến dựa trên nanocellulose (tinh thể nano cellulose, cellulose nano vi khuẩn và fibrin nano cellulose) có triển vọng trong ứng dụng y sinh học và thảo luận về yêu cầu của vật liệu đối với từng ứng dụng cũng như các thách thức mà các vật liệu đó có thể phải đối mặt. Cuối cùng, chúng tôi cung cấp cái nhìn tổng quan về hướng phát triển trong tương lai của các vật liệu dựa trên nanocellulose trong lĩnh vực y sinh học. © 2014 Wiley Periodicals, Inc. J. Appl. Polym. Sci. 2015, 132, 41719.

#nanocellulose #vật liệu y sinh học #tương thích sinh học #phân hủy sinh học #sợi cellulose nano #kỹ thuật mô #phân phối thuốc #chữa lành vết thương #ứng dụng tim mạch #vật liệu sinh học #ứng dụng trong y học #hướng phát triển tương lai
Mô hình nhạy cảm với kháng sinh của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma, Tây Nam Ethiopia Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 13 - Trang 1-10 - 2014
Nhiễm trùng vết thương là một trong những vấn đề sức khỏe do sự xâm nhập và gia tăng của các sinh vật gây bệnh. Thông tin về các mầm bệnh địa phương và độ nhạy cảm với các tác nhân kháng khuẩn, cũng như các tác nhân địa phương như axit acetic là rất quan trọng để điều trị bệnh nhân thành công. Nghiên cứu nhằm xác định mô hình nhạy cảm kháng khuẩn của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma. Một nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện trên bệnh nhân nhiễm trùng vết thương đến Bệnh viện Đặc biệt Jimma, từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2013. Mẫu vết thương được thu thập bằng cách sử dụng bông gòn vô trùng và được xử lý để phân lập vi khuẩn và kiểm tra độ nhạy với các tác nhân kháng khuẩn, axit acetic, hydrogen peroxide và dung dịch dabkin theo kỹ thuật vi sinh chuẩn. Các xét nghiệm sinh hóa được thực hiện để xác định loài của các sinh vật. Thử nghiệm độ nhạy được thực hiện bằng phương pháp khuếch tán đĩa Kirby-Bauer. Nồng độ ức chế tối thiểu và nồng độ diệt khuẩn tối thiểu được xác định bằng phương pháp pha loãng ống. Trong nghiên cứu này, 145 chủng vi khuẩn đã được thu hồi từ 150 mẫu cho thấy tỷ lệ phân lập là 87,3%. Vi khuẩn chiếm ưu thế được phân lập từ các vết thương nhiễm trùng là Staphylococcus aureus 47 (32,4%) tiếp theo là Escherichia coli 29 (20%), loài Proteus 23 (16%), Staphylococci không đông tụ 21 (14,5%), Klebsiella pneumoniae 14 (10%) và Pseudomonas aeruginosa 11 (8%). Tất cả các chủng đều cho thấy tỷ lệ kháng kháng sinh cao đối với ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline. Mô hình kháng đa thuốc tổng thể được tìm thấy là 85%. Axit acetic (0,5%), dung dịch Dabkin (1%) và 3% hydrogen peroxide là diệt khuẩn đối với tất cả các vi khuẩn phân lập và hiệu ứng gây chết được quan sát thấy khi áp dụng trong 10 phút. Trong thử nghiệm độ nhạy in vitro, ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline là những tác nhân kém hiệu quả nhất. Gentamicin, norfloxacin, ciprofloxacin, vancomycin và amikacin là những kháng sinh hiệu quả nhất. Axit acetic (0,5%), dung dịch dabkin (1%) và H2O2 (3%) là diệt khuẩn đối với tất cả các chủng vi khuẩn phân lập.
#nhiễm trùng vết thương #khuẩn #nhạy cảm với kháng sinh #tác nhân địa phương #Bệnh viện Đặc biệt Jimma
Phẫu thuật tổn thương mạch máu ngoại vi tại vị trí chọc mạch sau can thiệp tim mạch
 Các phương pháp can thiệp tim mạch ngày càng được phát triển và áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàngnhằm điều trị nhiều bệnh lý như bệnh mạch vành, động mạch chủ, bệnh van tim, chấn thương… Đi kèm với sự pháttriển này là các biến chứng mạch máu ở vị trí chọc mạch. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay còn rất ít nghiên cứu về biếnchứng này. Trong 15 trường hợp của nghiên cứu, hình thái tổn thương mạch máu sau can thiệp mạch bao gồm vếtthương động mạch (13,3%), giả phình động mạch (60,0%), thông động - tĩnh mạch (20,0%) và tụ máu sau phúc mạc(6,7%). Vị trí tổn thương gặp ở động mạch quay (20,0%), động mạch cánh tay (13,3%) và động mạch đùi (66,7%).Hầu hết bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật lấy khối giả phình, máu tụ và khâu vết thương bên với kết quả tốt.
#Phẫu thuật mạch máu ngoại vi #can thiệp tim mạch #vết thương động mạch #giả phồng động mạch #thông động – tĩnh mạch #tụ máu sau phúc mạc
Kết quả điều trị vết thương tim - Chấn thương tim tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp - Hải Phòng
Mục tiêu: tổng kết kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị 46 trường hợp vết thương, chấn thương tim tại bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp Hải Phòng từ năm 2006 – 2015.Phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu.Kết quả: Từ 2006 tới 2015, có 46 bệnh nhân (40 nam) bị vết thương tim và chấn thương tim điều trị tại bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp Hải Phòng, trong đó có38 trường hợp (82,61%) vết thương tim; 8 trường hợp chấn thương tim; độ tuổi bệnh nhân từ 15-80 (tuổi trung bình là 36,22 ± 12,18); 28 trường hợp (60,87%) có hội chứng ép tim cấp; 12 trường hợp (26,08%) có sốc mất máu; 32/38 trường hợp (84,21%) vết thương tim có vết thương ở vùng cảnh giác Peitzman. Thời gian trung bình từ khi bị thương đến khi vào viện là 65,35 ± 35,38 phút; có 29 trường hợp (63,04%) được siêu âm tim trước mổ; tổn thương thất phải hay gặp nhất với 22 trường hợp (47,82%); tỷ lệ tử vong là 15,22% (7 trường hợp)
#chấn thương tim #vết thương tim.
BÁO CÁO BA TRƯỜNG HỢP VẾT THƯƠNG TIM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BẮC NINH
Vết thương tim là một bệnh cảnh ít gặp, bệnh cảnh lâm sàng thường diễn biến rất nhanh và nặng nề, nguy cơ tử vong cao. Vết thương tim nếu được chẩn đoán và phẫu thuật kịp thời thì tỉ lệ cứu sống bệnh nhân tương đối cao. Chúng tôi xin báo cáo 3 trường hợp vết thương tim được xử trí thành công tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh
#vết thương tim #các đường mở ngực
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: PHẪU THUẬT BỆNH NHÂN VẾT THƯƠNG THẤU PHỔI VÀ THẤU TIM DO TỰ ĐÂM KẾT HỢP BỎNG THỰC QUẢN DO CHẤT TẨY RỬA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Tổng quan: Vết thương tim là một cấp cứu tối khẩn cấp hiếm gặp nhưng lệ tử vong cao. Một số báo cáo cho thấy tỷ lệ tử vong trước viện khoảng 94% và tử vong khoảng 50% trong thời gian nằm viện. Việc cấp cứu và phẫu thuật khẩn cấp có vai trò quan trọng trong việc cứu sống bệnh nhân và cải thiện tiên lượng. Chúng tôi báo cáo 1 bệnh nhân được phẫu thuật thành công vết thương tim do tự đâm kết hợp bỏng thực quản do chất tẩy rửa.  Ca lâm sàng: Bệnh nhân nam, 46 tuổi được đưa vào viện cấp cứu với nhiều vết thương do dao đâm vào thành trước ngực trái và phải. Bệnh nhân ngay lập tức được đưa vào phòng mổ để phẫu thuật mà không tháo ngay dị vật. Bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật khẩn cấp, khâu vết thương nhu mô phổi, khâu tái tạo thành bên thất trái.  Bàn luận: Chẩn đoán sớm và phẫu thuật nhanh chóng là những yếu tố quan trọng đối với bệnh nhân vết thương tim. Quá trình cầm máu phải được thực hiện kiên nhẫn từng bước một mà không lấy dị vật ra ngay lập tức. Kết luận: Trường hợp này nêu bật tầm quan trọng của việc điều trị phẫu thuật ngay để cứu sống những bệnh nhân vết thương nặng vùng lồng ngực.
#vết thương tim #cấp cứu #phẫu thuật khẩn cấp
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TIM TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115 TRONG 10 NĂM (7/2004 -7/2014)
Tổng quan và đặt vấn đề: Vết thương tim (VTT) là một cấp cứu ngoại khoa tương đối ít gặp. Nguyên nhân có thể do hỏa khí hay bạch khí. Nguy cơ tử vong ngoại viện cao do tình trạng mất máu cấp. Việc chẩn đoán sớm và phẫu thuật kịp thời sẽ tăng khả năng cứu sống người bệnh.Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá chẩn đoán và điều trị VTT tại BV Nhân Dân 115 trong khoảng thời gian 10 năm (7/2004-7/2014).Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu các trường hợp lâm sàng. Nhóm các bệnh nhân có VTT được mô tả các đặc điểm về dịch tễ học; Nhận định quá trình chẩn đoán VTT và cách xử trí các tổn thương giải phẫu; Đánh giá kết quả điều trị qua phân tích các trường hợp phẫu thuật thành công, hoặc có biến chứng hay tử vong.Kết quả: Trong thời gian 10 năm qua (7/2004 - 7/2014), tại BVND 115 đã có 50 trường hợp bệnh nhân có VTT, tuổi trung bình 20 ± 3.3 với 96% nam giới. Nguyên nhân đều do vật sắc nhọn gây ra. Vị trí vết thương trên thành ngực hầu hết nằm ở vùng nguy cơ. Hội chứng chèn ép tim cấp gặp 72%, sốc mất máu 30%. Thương tổn thất phải (52%), thất trái (30%). Điều trị ngoại khoa may VTT có hiệu quả tốt 78%.Biến chứng 8%. Tử vong 14%.Bàn luận và Kết luận: Tại BVND 115 TP.HCM, số lượng bệnh nhân có VTT gặp khoảng 5 trường hợp /năm; nguyên nhân chủ yếu từ vật sắc nhọn và do tai nạn sinh hoạt gây ra. Bệnh nhân nam, trẻ tuổi chiếm hầu hết các trường hợp. Chẩn đoán VTT dựa nhiều vào lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán có tính hiệu quả cao như siêu âm tim, CT scan ngực, chọc dò màng ngoài tim. Xu hướng xử trí chung là giảm tối đa thời gian chẩn đoán, tránh mất máu cấp. Tỷ lệ các bệnh nhân có hội chứng chèn ép tim cao. Điều trị phẫu thuật có hiệu quả. Tử vong 14% chủ yếu do tổn thương giải phẫu nặng, thời gian từ khi xảy ra tai nạn tới lúc phẫu thuật kéo dài hoặc kèm nhiều tổn thương phối hợp.
Hành động của liệu pháp quang sinh học trong việc sửa chữa vết thương ở chuột già: thời gian phát triển của các dấu hiệu sinh học viêm và sửa chữa Dịch bởi AI
Lasers in Medical Science - Tập 32 - Trang 1769-1782 - 2017
Những nghiên cứu trước đây đã đề cập đến mối tương quan nghịch giữa tuổi tác và khả năng lành vết thương, vì nó liên quan đến sự liên kết của quá trình lão hóa với sự giảm dần khả năng tự phục hồi. Điều trị bằng liệu pháp quang sinh học (PBMT) cải thiện khả năng lành vết thương bằng cách thúc đẩy sự gia tăng hoạt động phân chia tế bào, số lượng nguyên bào sợi, tổng hợp collagen và sự hình thành mạch máu mới. Do đó, nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của PBMT trong việc lành vết thương trên da ở chuột già. Một mẫu sinh thiết dạng khoan có đường kính 8 mm đã được thực hiện để tạo ra vết thương trên da. Nghiên cứu bao gồm 45 con chuột đực, trong đó có 15 con trẻ (30 ngày tuổi) và 30 con già (500 ngày tuổi). 45 con vật này được chia thành 3 nhóm thực nghiệm, trong đó có 1 nhóm già nhận được PBMT, bằng chùm laser 30 mW (mật độ công suất 1.07 W/cm2), diện tích chùm 0.028 cm2, và λ660 nm được tạo ra từ phosphide Gallium-Aluminum-Indio (InGaAIP). Ứng dụng PBMT được thực hiện dưới dạng phương pháp truyền qua da tại một điểm, với tổng năng lượng là 2 joules cho mỗi vị trí vết thương, mật độ năng lượng 72 J/cm2 và thời gian là 1 phút và 7 giây. Phân tích đã được thực hiện để xác minh tác động của PBMT đối với số lượng collagen I và III, metalloproteinase 3 và 9 (MMP-3 và MMP-9), chất ức chế mô metalloproteinase-2 (TIMP-2) và yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) tại vị trí vết thương thông qua hóa mô miễn dịch, tương tác hóa học trung tính do cytokine (CINC)-1, bằng phương pháp enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA) và phản ứng chuỗi polymerase thời gian thực của interleukin (IL)-6 (RT-PCR). Chúng tôi kết luận rằng LLLT có hiệu quả trong việc điều chỉnh các mediators viêm IL-6, CINC-1, VEGF, MMP-3, MMP-9 và TIMP-2 cũng như tăng sản xuất collagen ở động vật già trong các giai đoạn khác nhau của quá trình tái tạo mô. Tuy nhiên, những tác động của PBMT đạt được ở các động vật già (nhóm LLLT đã già) gợi ý rằng cần thử nghiệm tỷ lệ liều mới để đạt được kết quả tốt hơn.
#quang sinh học #vết thương #chuột già #liệu pháp ánh sáng #collagen #dấu hiệu sinh học #viêm
Vết thương do chiến đấu: Những con ếch gladiator nặng hơn bị thương nhiều hơn so với những con ếch nhẹ hơn Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 23 - Trang 39-44 - 2020
Các cuộc chiến đấu giữa động vật tốn nhiều năng lượng, nhưng chấn thương được cho là hiếm gặp. Ở loài ếch gladiator, con đực có một chiếc gai nằm dưới ngón tay cái (tức là prepollex) mà có thể được sử dụng như một vũ khí và thường để lại sẹo trong các cuộc tranh giành vùng đẻ trứng. Hiểu biết về cách thức hình thành sẹo và cách phân bố sẹo trong các cá thể có thể có giá trị để giải quyết chi phí và lợi ích của việc chiến đấu. Tại đây, chúng tôi đã nghiên cứu loài ếch gladiator Boana curupi ở một con suối nhiệt đới mới để (1) đánh giá độ hiếm của nguồn tài nguyên bị tranh chấp, (2) xem xét cách thức mà các chiếc gai được sử dụng trong các cuộc đấu, và (3) thử nghiệm mối tương quan giữa số lượng sẹo trên lưng của con đực với hình thái học của chúng. Chúng tôi chỉ tìm thấy bốn khu vực sinh sản trong khoảng ~ 1 km của con suối. Khi con đực tham gia vào các cuộc chiến thân thể, chúng đã đánh vào lưng đối thủ bằng prepollex. Sẹo trên lưng con đực do đó là do prepollex gây ra. Hai kết quả trên lý giải cho sự gia tăng tần suất chấn thương: 90,7% (29 trong số 32 con đực) có dấu hiệu sẹo. Hơn nữa, số lượng chấn thương trên lưng của con đực tăng lên theo trọng lượng của con đực, nhưng không theo kích thước cơ thể của chúng. Do đó, những cá thể nặng hơn đang chịu nhiều tổn thương hơn so với những cá thể nhẹ hơn, cho thấy rằng những cá thể nặng hơn tham gia nhiều trận chiến hơn và coi trọng việc sinh sản hơn so với những cá thể nhẹ hơn.
#ếch gladiator #vết thương #chiến đấu #sinh sản #lặn tìm thức ăn
Kích thích dây thần kinh qua da (TENS) tăng tốc quá trình lành vết thương ngoài da và ức chế các cytokine gây viêm Dịch bởi AI
Inflammation - Tập 37 - Trang 775-784 - 2013
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá kích thích dây thần kinh qua da (TENS) và các phương pháp điều trị phổ biến khác được sử dụng trong quá trình lành vết thương, dựa trên mức độ biểu hiện của các cytokine gây viêm. Trong nghiên cứu, 24 con chuột Wistar–Albino trưởng thành (24 con cái và 24 con đực) được chia thành năm nhóm: (1) nhóm không bị thương không có vết mổ, (2) nhóm đối chứng có vết mổ, (3) nhóm TENS (2 Hz, 15 phút), (4) nhóm dung dịch muối sinh lý (PS) và (5) nhóm iod povidon (PI). Trong các mẫu da, interleukin-1 beta (IL-1β), interleukin-6 (IL-6) và yếu tố hoại tử khối u-α (TNF-α) được đánh giá bằng phương pháp thử nghiệm miễn dịch enzyme liên kết và phương pháp miễn dịch hóa học mô. Trong nhóm không bị thương, sự biểu hiện của các phân tử tín hiệu IL-1β, IL-6 và TNF-α yếu hơn trong toàn bộ mô; tuy nhiên, trong nhóm đối chứng, phản ứng viêm đáng kể đã xảy ra, và sự biểu hiện cytokine mạnh đã được quan sát trong lớp bì, mô hạt, nang lông và tuyến bã (P < 0.05). Trong nhóm TENS, sự giảm phản ứng miễn dịch của TNF-α, IL-1β và IL-6 ở da là đáng kể so với các hình thức điều trị khác (P < 0.05). Những giảm thiểu rõ rệt của các cytokine gây viêm quan sát được trong lớp bì ở nhóm TENS cho thấy TENS đã rút ngắn quá trình lành thương bằng cách ức chế giai đoạn viêm.
#kích thích dây thần kinh qua da #TENS #lành vết thương #cytokine gây viêm #interleukin #yếu tố hoại tử khối u
Tổng số: 11   
  • 1
  • 2